user

MYCOPLASMA GALLISEPTICUM - THÁCH THỨC LỚN CHO NGÀNH CHĂN NUÔI GIA CẦM

Mycoplasma gallisepticum (MG) gây bệnh hô hấp mãn tính trên gà. MG truyền qua trứng, gây thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng tới chất lượng thịt, giảm năng suất trứng và hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng chi phí sản xuất. MG gây bệnh phổ biến trên toàn cầu.

TRIỆU CHỨNG VÀ BỆNH TÍCH

Khi gây bệnh một mình hoặc khi kết hợp với những mầm bệnh khác, MG là một tác nhân của CRD. Trong điều kiện thực nghiệm, giai đoạn ủ bệnh khoảng 5 – 10 ngày nhưng ở điều kiện tự nhiên giai đoạn ủ bệnh thường cao hơn.

Triệu chứng lâm sàng bao gồm sổ mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, ho, ran khí quản và khó thở. Những gia cầm bị nặng biểu hiện mệt lử, há miệng để thở. Tốc độ tăng trưởng bị chậm lại, tỷ lệ đẻ giảm (10 – 15 trứng/gà đẻ) và tăng tỷ lệ trứng kém chất lượng. Tỷ lệ nhiễm thường cao và tỷ lệ chết rất khác nhau do phụ thuộc vào tuổi gà nhiễm bệnh và sự hiện diện của những tác nhân đồng nhiễm.

Ở giai đoạn sớm của bệnh, bệnh tích rất hạn chế tập trung vào viêm thanh dịch đường hô hấp và có bọt hoặc phù túi khí. Sau đó xuất hiện fibrin ở túi khí và thỉnh thoảng có ở các nội cơ quan khác (viêm màng bụng hoặc viêm màng gan). Bệnh tích trên đường hô hấp có thể nghiêm trọng ở những gia cầm có một số triệu chứng lâm sàng. Bệnh tích viêm phổi, viêm kết mạc, viêm bao gân, viêm khớp, viêm ống dẫn trứng thỉnh thoảng được báo cáo.

a.Túi khí bình thường                                b. Túi khí bị viêm do MG 

c. Túi khí viêm có bọt do nhi                  d. Túi khí viêm fiblin do nhiễm MG

CHẨN ĐOÁN

Phân lập và định danh

Phân lập và định danh là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán MG và là điều kiện cần thiết trong gây nhiễm thực địa. Để nuôi cấy MG, sử dụng swab khí quản hoặc khe hở lỗ mũi sau để nuôi cấy trên môi trường chuyên biệt cho mycoplasma. Túi khí có bệnh tích cũng có thể được lấy mẫu. Tuy nhiên, MG có xu hướng biến mất khỏi khu vực bệnh tích sau vài tuần và chỉ tồn tại ở đường hô hấp trên. Chỉ một số ít phòng lab trên thế giới có thể phân lập được mycoplasma do đặc tính khó mọc của vi khuẩn này. Vì khó phân lập được mycoplasma nên cũng gây hạn chếcho kiểm tra kháng sinh đồ dẫn tới việc sử dụng kháng sinh rất tràn lan trong việc phòng và trị bệnh do mycoplasma. Hệ quả tất yếu của việc này là tình trạng kháng kháng sinh sẽ xảy ra phổ biến hơn.

PCR

Có nhiều kỹ thuật được sử dụng để phát hiện vật liệu di truyền của MG như PCR, RT-PCR. RT-PCR là một kỹ thuật có độ nhạy cao, định lượng được DNA của MG và được sử dụng hiệu quả tại phòng xét nghiệm Viphalab. Kết quả kiểm tra MG bằng kỹ thuật RT-PCR tại Viphalab từ tháng 1 – 10/2020 cho tỷ lệ dương tính là 34.5% trên tổng số mẫu nhận tại Việt Nam.

Huyết thanh học

Kiểm tra huyết thanh là một chương trình kiểm soát tự nguyện tại Mỹ. Đánh giá tình trạng nhiễm mycoplasma có thể được thực hiện bằng phản ứng ngưng kết trên phiến kính (SPA). Khoảng 10% đàn ( hoặc tối thiểu 300 mẫu) được kiểm tra trước khi đẻ và khoảng 30 mẫu/đàn được kiểm tra mỗi 60 – 90 ngày sau đó. Phản ứng huyết thanh học cũng được sử dụng cho mục đích chẩn đoán tại phòng xét nghiệm.

Phản ứng SPA là test nhanh, không đắt và có độ nhạy cao. Gia cầm bị nhiễm bệnh có thể cho kết quả dương tính sớm sau khi nhiễm 7 – 10 ngày. Kỹ thuật này cần sử dụng kháng nguyên Mycoplasma gallisepticum được nhuộm đặc biệt. Khoảng 0.02ml huyết thanh và 0.03ml kháng nguyên được cho lên trên phiến kính. Phiến kính được lắc trong 2 – 3 phút và kiểm tra bằng mắt thường sự ngưng kết.

Phản ứng HI cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán mycoplasma. Phản ứng HI được đánh giá là có độ đặc hiệu cao nhưng độ nhạy kém hơn so với SPA. Những gia cầm bị nhiễm bệnh sẽ không cho kết quả dương tính cho tới 2 – 3 tuần hoăc lâu hơn sau khi nhiễm bệnh. Thêm nữa, sự khác nhau về cấu trúc kháng nguyên của các chủng mycoplasma khác nhau có thể ảnh hưởng tới kết quả HI. Kháng nguyên được chuẩn bị từ một chủng M. gallisepticum không thể đủ để phát hiện kháng thể bằng HI ở những gia cầm nhiễm chủng khác.

Kỹ thuật Elisa cũng đã được phát triển và thương mại hóa. Kit Elisa có thể phát hiện kháng thể ở giai đoạn sớm của bệnh hơn so với phản ứng HI. Mặc dù chất lượng của test kit tốt tuy nhiên kết quả dương tính giả thỉnh thoảng vẫn xảy ra.

Trong nhiều tình huống, kiểm tra huyết thanh học không cho kết quả chẩn đoán cuối cùng, đặc biệt khi phản ứng ngưng kết và phản ứng Elisa dương tính nhưng không được xác định lại bằng phản ứng HI. Kiểm tra lại là cần thiết trong những trường hợp này. Khi việc kiểm tra lại là cần thiết, phân lập hoặc PCR nên được sử dụng thay cho huyết thanh học vì cho kết quả nhanh và chính xác hơn.

Tại Viphalab, MG được kiểm tra bằng kit Elisa của Biocheck

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán phân biệt Nhiễm mycoplasma trên gia cầm có thể thực sự nhầm lẫn với những bệnh trên đường hô hấp khác và triệu chứng lâm sàng có thể chỉ rõ ràng khi kết hợp đồng thời với những mầm bệnh hô hấp khác như ND hoặc IB. Những vi khuẩn gây viêm túi khí cũng thường xuất hiện. E. coli là loại vi khuẩn thường xuyên được phân lập. Ngoài ra MG cũng cần được chẩn đoán phân biệt với coryza, tụ huyết trùng, ORT, sưng phù đầu do virus hoặc bệnh trên đường hô hấp do virus ILT hoặc cúm có độc lực trung bình

Tài liệu tham khảo:

- Manual of poultry disease

- Disease of poultry, 14th Edition

- American association of Avian pathology

Tác giả: BSTY. Lương Tấn Phát, Quản lý kỹ thuật Đông Nam Á, Tập đoàn Olmix